Đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp (GDNN) cần được nhìn nhận là “đầu tư phát triển” thay cho “đầu tư vào vốn con người” như trong Dự thảo thể hiện. Bởi lẽ đầu tư cho phát triển chính là sự đầu tư lâu dài, trên nhiều phương diện, trong đó đã bao hàm cả việc đầu tư vào vốn con người. Sự đầu tư này cũng sẽ tác động đến các mặt kinh tế – xã hội của đất nước”, PGS, TS Dương Đức Lân, Chủ tịch Hiệp hội GDNN và nghề Công tác xã hội Việt Nam góp ý về quan điểm, mục tiêu phát triển GDNN trong Dự thảo Đề án Chiến lược phát triển GDNN giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến 2045. Theo PGS, TS Dương Đức Lân, một số nội dung trong Dự thảo Đề án cần được nhìn nhận, thể hiện một cách tổng quát hơn.
Ngày 21/6, Hiệp hội GDNN và nghề CTXH Việt Nam đã tổ chức Hội nghị Ban chấp hành Hiệp hội, đóng góp ý kiến xây dựng Dự thảo Chiến lược phát triển GDNN giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn đến năm 2045. Với sự hội tụ trí tuệ của các thành viên từng giữ nhiều chức vụ chủ chốt của ngành LĐ-TB&XH, tiếng nói từ thực tiễn của đại diện các thành viên đến từ các cơ sở GDNN, Hiệp hội đã có nhiều ý kiến tâm huyết, đề cập toàn diện đến nhiều nội dung phát triển GDNN góp ý xây dựng Dự thảo Đề án Chiến lược.
Dự báo các yếu tố tác động đến sự phát triển của GDNN
Với việc vạch ra quan điểm, mục tiêu phát triển cho cả một giai đoạn 10 năm từ 2021-2030 và tầm nhìn đến năm 2045, nhiều ý kiến của thành viên Hiệp hội cho rằng, Đề án Chiến lược cần dự báo được các yếu tố tác động đến sự phát triển của GDNN.
Theo bà Nguyễn Thị Hằng – nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH, nguyên Chủ tịch Hiệp hội GDNN và nghề CTXH Việt Nam: Chiến lược phát triển GDNN giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 cần đưa ra được dự báo về phát triển kinh tế – xã hội 10 năm tới từ tổng thể đến các ngành nghề cụ thể. Ngành nghề nào sẽ xuất hiện, ngành nghề nào sẽ có sự phát triển nổi trội, ngành nghề nào sẽ bị thay thế. Ngành nghề nào sẽ được tự động hóa, ngành nghề nào còn sử dụng lao động trực tiếp. Bởi có dự báo được điều này, các cơ sở GDNN mới có phương hướng phát triển, đào tạo nghề phù hợp.
Chiến lược cũng phải dự báo được phát triển dân số và nguồn nhân lực của cả nước như dân số tăng, giảm như thế nào, nguồn nhân lực về tổng thể, cơ cấu, độ tuổi, nam nữ, vùng miền ra sao để có phương hướng phát triển phù hợp, tránh tình trạng dư thừa lao động ở thành phố, thiếu hụt lao động có kỹ năng nghề ở vùng sâu, vùng xa. Dự báo tiền lương phổ thông trong khu vực, trong các ngành nghề sẽ tăng giảm như thế nào.
Nhấn mạnh việc vai trò của chiến lược GDNN, TS Phan Chính Thức – nguyên Phó Chủ tịch Hiệp hội GDNN và nghề CTXH Việt Nam cho biết, hệ thống GDNN của các nước thường lo toan sức ép của hiện tại hơn là tính toán đến những vấn đề của tương lai. Trong khi đó, Dự thảo Chiến lược phát triển GDNN của Việt Nam bên cạnh việc lo giải bài toán về sức ép hiện tại cũng đã đưa ra các chiến lược phát triển của hệ thống trong tương lai. Điều này thể hiện sự quan tâm của Tổng cục GDNN đối với các vấn đề phát triển của hệ thống.
Đánh giá Dự thảo Chiến lược đã được xây dựng bài bản, khoa học và công phu, tuy nhiên theo TS Phan Chính Thức, làm chiến lược chưa bao giờ là vấn đề dễ dàng vì nó phụ thuộc vào rất nhiều biến số. Do đó, việc tham gia đóng góp ý kiến xây dựng Dự thảo Chiến lược, đặc biệt là những ý kiến từ thực tiễn của các cơ sở GDNN đối với những vấn đề mang tính dự báo là rất quan trọng, cần thiết.
Coi nhà trường như một xí nghiệp có trình độ chuyên môn cao
Quan tâm đến việc gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp (DN) trong đào tạo, ông Tô Xuân Giao – Ủy viên Thường vụ BCH Hiệp hội GDNN và nghề CTXH Việt Nam, Giám đốc Công ty TNHH Toàn Á cho rằng, cần định hướng được nhiệm vụ của nhà trường là đào tạo được một người lao động thuần thục các kỹ năng của một nghề, biết sử dụng các loại dụng cụ, máy móc liên quan đến nghề được đào tạo. Bởi lẽ, khi tuyển dụng nhân lực từ các cơ sở GDNN, DN thường mong muốn người lao động phải có các tiêu chí nêu trên.
Thực tế này, đòi hỏi các cơ sở GDNN phải được trang bị phù hợp cũng như có đội ngũ giảng viên phải được thực hành tại nhiều cơ sở sản xuất. Như vậy “cơ sở GDNN có thể coi như một xí nghiệp có trình độ chuyên môn cao với đội ngũ giảng viên là những người có kỹ năng nghề cao cùng trang thiết bị hiện đại tương đương doanh nghiệp hoặc có thể hơn. Lúc đó cơ sở GDNN ngoài nhiệm vụ đào tạo vẫn có khả năng có thể nhận một số sản phẩm phù hợp với để tham gia sản xuất”, ông Tô Xuân Giao nói.
Cũng theo ông Tô Xuân Giao, việc xem cơ sở GDNN như một xí nghiệp có trình độ chuyên môn cao mang đến nhiều lợi ích. Đó là sử dụng hết công suất máy móc thiết bị; giảng viên luôn được nâng cao tay nghề; học sinh, sinh viên được thực hành thực tập tên sản phẩm thật có sự giám sát, hướng dẫn của giảng viên. Sau khi đã quen với sản xuất học sinh có thể tham gia lao động kỹ thuật cùng các công nhân trong DN mà vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm.
“Tất nhiên khi sử dụng các thiết bị đào tạo và học sinh để tham gia sản xuất hoặc học sinh tham gia sản xuất tại DN, nhà trường và DN phải có chung chương trình giảng dạy, có qui định chặt chẽ để đảm bảo chất lượng thiết bị đào tạo theo từng giai đoạn”, ông Giao lưu ý.
Tham mưu các giải pháp kết hợp giữa nhà trường với DN trong đào tạo, ông Tô Xuân Giao cho rằng, cần nghiên cứu chọn các trường đủ tiêu chuẩn chất lượng cao hoặc tương đương để thành lập Trung tâm vùng, trung tâm phát triển và ứng dụng sản xuất. Các trung tâm vùng này phải là nơi đủ điều kiện trưng dụng các cuộc thi kỹ năng nghề cho học sinh sinh viên, giáo viên, người lao động .,. mọi cấp độ. Là địa điểm có đủ điều kiện để tổ chức cho giáo viên và học sinh gia công sản xuất các sản phẩm theo đặt hàng…
Đề cập đến đào tạo theo kiểu hướng cầu, PGS.TS Dương Đức Lân cho rằng, đây là nội dung quan trọng cần đề cập đến trong Dự thảo Đề án Chiến lược: “Chiến lược của giai đoạn trước đã đề cập đến nội dung này. Tuy nhiên, mới chỉ có được rất ít trường đào tạo theo kiểu hướng cầu. Các trường này cũng mới chỉ đào tạo được một phần theo kiểu hướng cầu thôi chứ chưa phải hướng cầu hẳn. Còn lại đa số các trường vẫn đào tạo theo kiểu có gì dạy đó”.
Do đó, theo PGS.TS Dương Đức Lân, Đề án Chiến lược của giai đoạn này cần tiếp tục quan tâm thực hiện vấn đề đào tạo theo kiểu hướng cầu, người sử dụng lao động cần gì thì các trường đào tạo nội dung đó.
“Mục tiêu tổng quát của Chiến lược phải là sản phẩm đầu ra. Đó là số lượng, chất lượng, cơ cấu lao động được đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động”, PGS.TS Dương Đức Lân góp ý.
Cùng quan tâm, NGƯT. TS. Phạm Xuân Khánh, Phụ trách Trường Cao đẳng nghề Công nghệ cao Hà Nội cho biết, thế giới đã và đang trải qua những biến đổi to lớn như chuyển đổi số, cách mạng công nghiệp 4.0, các vấn đề an ninh phi truyền thống, thiên tai, dịch bệnh. Nhiều ngành sản xuất, nhiều phương thức sản xuất sẽ được thay thế và những ngành nghề mới, phương thức mới, việc làm mới sẽ ra đời.
Điều này tạo ra thách thức rất lớn trong vấn đề dư thừa lao động có kỹ năng và trình độ thấp gây phá vỡ thị trường lao động truyền thống, thiếu hụt nhân lực trình độ cao, ảnh hưởng tới tình hình kinh tế- xã hội đất nước. Đồng thời cũng đặt ra bài toán cho các cơ sở GDNN. Đó là phải đổi mới và nâng cao chất lượng dạy và học, tập trung đào tạo chất lượng cao, đào tạo theo hướng mở, linh hoạt, chuyển từ hướng “cung” sang hướng “cầu”, đào tạo gắn kết với nhu cầu sử dụng lao động của DN, đặc biệt là các DN đòi hỏi lao động trực tiếp tay nghề cao ở các lĩnh vực khoa học công nghệ tiên tiến.
“Làm gấp” tự chủ giáo dục nghề nghiệp
Quan tâm đến vấn đề tự chủ của các cơ sở GDNN, TS Nguyễn Thị Hằng – Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Kỹ nghệ II cho biết, đây là quy luật phát triển tất yếu. Vấn đề tự chủ của các nhà trường cũng đã nhiều lần được đề cập đến. Tuy nhiên hiện nay mới có 3 cơ sở GDNN thực hiện việc thí điểm tự chủ, trong đó có Trường Cao đẳng Kỹ nghệ 2.
“Nhiều cơ sở GDNN ngần ngại việc tự chủ sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, quan điểm của Chính phủ thì tự chủ không phải là cắt hết ngân sách của các trường mà là có những sự thay đổi, có những quy định về phân phối và cơ chế tài chính cho việc đầu tư cho GDNN. Dự thảo Đề án Chiến lược cần tiếp cận đúng chủ trương này của Chính phủ về tự chủ”, TS Nguyễn Thị Hằng thông tin.
Đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản trị GDNN
Đề cập đến vai trò của chuyển đổi số trong quản lý, quản trị nhà trường của hệ thống GDNN, TS Đồng Văn Ngọc – Hiệu trưởng Trường CĐ Cơ điện Hà Nôi cho biết, chuyển đổi số là tất yếu, chuyển đổi số càng chậm sẽ mất đi cơ hội phát triển, đặc biệt không chuyển đổi số sẽ khó có thể tồn tại. “Chúng ta đã nhìn thấy giáo dục, giáo dục đại học, GDNN trên thế giới thực hiện chuyển đổi số và họ đã đi trước một bước trước khi dịch COVID-19 xuất hiện. Các trường học của họ đã quản lý, quản trị từ xa, họ có hệ thống phần cứng, phần mềm, công nghệ, cơ chế quản lý, con người và các nguồn lực, các đối tượng trong nhà trường đều thực hiện trên hệ thống quản lý, quản trị nhà trường số”, TS Đồng Văn Ngọc thông tin.
Theo TS Đồng Văn Ngọc, chuyển đổi số để quản lý, quản trị nhà trường trong hệ thống GDNN nước ta gần như mới được các nhà trường nhận ra. Một số trường cũng bắt đầu đẩy mạnh chuyển đổi số các hoạt động quản lý đào tạo, đào tạo trực tuyến, tổ chức các cuộc hội – họp trực tuyến,…
Tuy nhiên còn rất nhiều hạn chế trong vấn đề chuyển đổi số trong các nhà trường GDNN như: Chưa đồng bộ, công nghệ chưa xác định được; việc kết nối hệ thống chuyển đổi số nội bộ và kết nối với hệ thống chuyển đổi số của ngành GDNN chưa có, mới dừng ở mức độ đáp ứng các công việc cấp bách. Chẳng hạn, đại dịch Covid 19 cũng đã tạo ra nhận thức mới, cơ hội bắt buộc các nhà trường, các nhà quản lý nhà trường, nhà giáo, HSSV phải thực hiện công viện trên môi trường mạng, kết nối trực tuyến, mọi người đều phải cập nhật kiến thức, kỹ năng số để tham gia công việc và hoàn thành công việc được giao.
Để đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản lý, quản trị nhà trường, TS Đồng Văn Ngọc góp ý: Chiến lược phát triển GDNN giai đoạn 2021-2030 tầm nhìn đến 2045, cần phải xác định và xây dựng hệ thống chuyển đổi số quốc gia về GDNN, hay có thể gọi là “Hệ sinh thái chuyển đổi số GDNN”. Trong đó, việc đẩy mạnh chuyển đổi số các nhà trường GDNN là bắt buộc. Giai đoạn 2021-2025, phấn đấu xây dựng được mô hình chuyển đổi số cho một số các trường có đủ năng lực thí điểm theo mô hình chuyển đổi số hiện đại ngang tầm với các trường của các nước đã có hệ thống chuyển đổi số GDNN ổn định và phát triển trên thế giới.
Theo đó, các nhà trường cần xây dựng đề án chuyển đổi số cho riêng mình phù hợp với công nghệ của Hệ thống chuyển đổi số quốc gia về GDNN; căn cứ chức năng, nhiệm vụ của nhà trường, của các phòng, khoa, đơn vị trực thuộc nhà trường, phân tích đánh giá để xác định những nội dung, công việc có thể chuyển đổi số về quản trị, quản lý, làm việc thì phải thực hiện chuyển đổi số; Trang bị hệ thống phần cứng, hệ thống thiết bị phụ trợ, hệ thống phần mềm đồng bộ, đào tạo chuẩn năng lực quản lý, quản trị số cho cán bộ quản lý, nhà giáo và học sinh sinh viên.
Các nhà trường cũng cần bố trí nhân lực chuyên trách để vận hành, quản trị hệ thống chuyển đổi số, giúp cho hệ thống vận hành an toàn và ổn định, đảm bảo bảo mật thông tin, bảo mật an ninh mạng,…Ngoài ra, cách tiếp cận chuyển đổi số cần linh hoạt và mở để luôn cập nhật công nghệ chuyển đổi số và phù hợp với điều kiện thực tiễn tại Việt Nam. Như vậy thì mới có thể chuyển đổi số thành công và hiệu quả.
Tại Hội thảo, cùng với các ý kiến góp ý về mục tiêu tổng quát của chiến lược, dự báo các vấn đề tác động đến phát triển GDNN, chuyển đổi số trong quản lý, quản trị doanh nghiệp, tự chủ GDNN, thành lập trung tâm phát triển vùng, các ý kiến góp ý của Hiệp hội GDNN và nghề CTXH cũng đề cập đến vấn đề quy hoạch mạng lưới cơ sở GDNN, về cơ chế chính cho các cơ sở GDNN ngoài công lập phát triển, về phân luồng tuyển sinh, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo…
Trực tiếp tham dự Hội thảo, Tổng cục trưởng Tổng cục GDNN Trương Anh Dũng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục GDNN Phạm Vũ Quốc Bình ghi nhận và đánh giá cao các ý kiến góp ý tâm huyết xây dựng Dự thảo Đề án Chiến lược của Hiệp hội GDNN và nghề CTXH Việt Nam.